Những chỉ số “biết nói’ về nghiên cứu ở đại học VN

Trong 10 năm, Việt Nam tăng đáng kể số lượng bài báo khoa học quốc tế; nhưng tỷ lệ được trích dẫn còn khiêm tốn. Đáng lưu ý, chiếm áp đảo là các bài báo có nhiều tác giả nước ngoài. Toán học và Vật lý vẫn là những lĩnh vực ‘thống trị”.


Đây là những thông tin cơ bản được TS Andrew Paterson (Thái Lan) đưa ra tại hội thảo quốc tế về giáo dục đại học tổ chức ở Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đầu tháng 9 vừa qua.

 

Bài viết của TS Paterson nhằm mục đích bổ sung vào cuộc tranh luận về những đóng góp của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong quá trính đổi mới kinh tế.

 

Tác giả tập trung so sánh các nước trong khu vực Đông Nam Á có chung một số điều kiện tự nhiền và nền kinh tế xã hội, gồm Việt Nam, Indonesia, Philippines, Malaysia, Thái Land và Campuchia.

 

Số lượng tăng nhanh, trích dẫn ít


Vào thời điểm đầu tiên trong 10 năm, kể từ 1998, không quốc gia nào có  được hơn 1.000 ấn bản mỗi năm, nhưng rồi Thái Lan và Malaysia đã vượt “ngưỡng 1.000” vào năm 1999 và 2003. Sản lượng của Thái Lan tăng gấp 4 lần trong 10 năm, trong khi con số ở Malayssia  tăng 150% trong 5 năm. Việt Nam và Philippines bám sát sự tăng trưởng về số lượng này.

 

“Rõ ràng, Thái Lan và Malaysia rất nỗ lực để vươn tới vị trí dẫn đầu trong nhóm” – Paterson khẳng định.

So sánh về chất lượng, tác giả dùng cách đo lường là  sự thừa nhận trong cộng đồng, thông qua số lần các bài báo được trích dẫn.

 

Philipines, Indonesia và Campuchia có chỉ số bài báo được trích dẫn cao hơn. Ngược lại, các nước như Thái Lan, Malaysia và Việt Nam – với tần suất được trích dẫn thấp hơn –  lại có sự tăng trưởng số lượng lớn  hơn cả, tương ứng với 76.3%k 34.9% và 28,4%.

Có nhiều đồng tác giả nước ngoài


Một chỉ số đáng quan tâm mà TS Paterson khảo sát, đó là sự tham gia của các tác giả nước ngoài trong các bài báo trên.

Trong khoảng 8 năm của giai đoạn này, ở Indonesia và Campuchia, cứ 10 bài báo thì có 8 bài mà người nghiên cứu tham gia cùng với ít nhất một tác giả ngoài nước. Khoảng 70 – 80% bài báo của Việt Nam cũng được chia sẻ với tác giả nước ngoài.

 

Ngược lại, sự hiện diện của tác giả “quốc ngoại” chỉ chưa đầy một nửa trong số các bài báo đến từ Malaysia.

Peterson cũng dẫn thêm báo cáo của GS Vật lý Phạm Duy Hiển để mở rộng sự phân tích của mình.

 

Theo một nghiên cứu của GS Hiển, trong 806 bài báo của Việt Nam năm 2008, chỉ có 301 (chiếm 37%) là tác giả “quốc nội”.

 

Sự hợp tác toàn cầu giúp các tác giả trong nước có thêm cơ hội cọ xát, học hỏi, nhưng cũng đặt ra thách thức cho các nghiên cứu độc quyền, Paterson cho hay.

 

Toán, lý ‘thống trị’

Trong các lĩnh vực nghiên cứu, Việt Nam thống trị về toán và vật lý, trong khi Philippines  áp đảo với các ấn bản trong lĩnh vực y khoa, y sinh và y học.

 

Ở Việt Nam,  lý do vì làm các nghiên cứu lý thuyết toán, vật lý không tốn kém nhiều chi phí phòng thí nghiệm.

 

Còn ở Philippines, điều này phản ánh, ở một nước đang phát triển đang gặp các nhu cầu cần thiết với dân chúng về sức khỏe, dinh dưỡng, và vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế. Ở khía cạnh khác cũng báo hiệu tình trạng kém phát triển của nước bản địa khi nghiên cứu trong các lĩnh vực hóa học và công nghệ, khiến đất nước phụ thuộcvới các quốc gia hàng đầu trong những lĩnh vực này, mà có thể gọi là “rủi ro”.

 

Malaisia là một ví dụ về việc cân bằng các ấn bản ở những lĩnh vực khác nhau, giúp đất nước có vị trí tốt hơn trong nhóm,  tạo đà khai thác các cơ hội đổi mới trong nhiều lĩnh vực khoa học.

 

Các phân tích dựa chủ yếu trên các ấn phẩm tiêu chuẩn “ISI” ((Institute of Scientific Information) một tổ chức thống kê về thông tin khoa học quốc tế, được sử dụng khá phổ biến trong giới khoa học hiện nay


  • Vân Phong – VNN