Terence Tao là nhà toán học người Úc chuyên về giải tích điều hòa, phương trình đạo hàm riêng, lí thuyết tổ hợp, lí thuyết số giải tích và lí thuyết biểu diễn. Ông hiện là giáo sư toán tại trường Đại học California, Los Angeles. Ông giữ chức này từ năm 24 tuổi. Tháng 8 năm 2006, ông được trao Huy chương Fields cho những đóng góp về Toán học. Huy chương Fields được coi là giải thưởng cao quý nhất giành cho các nhà toán học. Chỉ một tháng sau, tức là vào tháng 9 năm 2006, ông được trao học bổng MacArthur.
Cuộc sống cá nhân
Terence Tao sinh ngày 17 tháng 7 năm 1975 tại Adelaide, Úc. Bố mẹ ông đều là người Trung Quốc và thuộc thế hệ những người đầu tiên nhập cư từ Hồng Công vào Úc. Bố của ông, Đào Tượng Quốc (陶象国), là một bác sĩ nhi khoa còn mẹ ông tốt nghiệp cử nhân từ trường Đại học Hồng Công và đã từng là giáo viên Toán bậc trung học tại Hồng Công.
Bố ông nói rằng trong một cuộc gặp mặt gia đình, Terence Tao lúc đó mới 2 tuổi đã dạy Toán và tiếng Anh cho một cậu bé 5 tuổi. Khi được hỏi tại sao ông biết số và chữ, bố ông đã trả lời ông học được từ chương trình truyền hình Sesame Street. Terence Tao nói tiếng Quảng Đông, nhưng không biết viết tiếng Trung Quốc.
Ông hiện đang sống với vợ Laura Kim Tao và con trai William Kim Tao tại Los Angeles, Mĩ.
Em trai ông, Trevor Tao, đang sống ở Adelaide, Úc, là một trong 10 kì thủ hàng đầu của Úc.
Thần đồng
Terence Tao thể hiện khả năng toán cực kỳ đặc biệt ngay từ khi còn nhỏ. Ông học đại học khi mới 9 tuổi. Ông là một trong hai đứa trẻ duy nhất trong lịch sử của chương trình nghiên cứu tài năng đặc biệt của Johns Hopkins đạt trên 700 điểm trong kì thi Toán SAT khi mới 8 tuổi (ông được 760 điểm). Liên tiếp trong ba năm 1986, 1987 và 1988, Terence Tao là thí sinh trẻ tuổi nhất tại thời điểm đó tham dự kì thi Olympic Toán quốc tế và giành lần lượt huy chương đồng, bạc và vàng. Ông giành huy chương vàng khi vừa mới bước qua tuổi 13 và hiện đang là người nhỏ tuổi nhất từng đoạt huy chương vàng trong lịch sử các kì thi. Terence Tao tham gia viện Khoa học nghiên cứu vào năm 14 tuổi. Ông có bằng cử nhân và thạc sỹ của trường Flinders khi mới 17 tuổi. Năm 1992 ông giành học bổng Fulbright để nghiên cứu tiến sĩ tại Mĩ. Từ năm 1992 đến năm 1996, ông là nghiên cứu sinh tại trường Đại học Princeton dưới sự hướng dẫn của Elias Stein, và nhận bằng tiến sĩ khi mới 20 tuổi. Cùng năm đó ông gia nhập đội ngũ giảng dạy của trường UCLA.
Nghiên cứu và giải thưởng
Ông giành giải thưởng Salem vào năm 2000, giải thưởng Bocher năm 2002 và giải Clay năm 2003 cho những đóng góp về giải tích liên quan đến giả thuyết Kakeya và ánh xạ sóng. Năm 2005 cùng với Allen Knutson, ông giành giải thưởng Levi L. Conant của Hội Toán học Mĩ, và năm 2006 ông được trao giải SASTRA Ramanujan.
Năm 2004, Ben Green và Terence Tao công bố một tiền ấn phẩm chứng minh sự tồn tại của cấp số cộng có độ dài bất kì của các số nguyên tố. Qua đó ông được trao Huy chương Hiệp hội Toán học Úc.
Năm 2006, tại Đại hội Toán học quốc tế lần thứ 25 ở Madrid, ông là một trong những người trẻ nhất, người Úc đầu tiên và là giáo sư đầu tiên của UCLA giành Huy chương Fields. Một bài báo của tạp chí NewScientist viết về ông:
Terence Tao nổi tiếng đến mức mà những nhà toán học tranh nhau lôi cuốn ông ta về bài toán của mình, và ông trở thành một trong những Ông Thợ-giải-toán cho những người nghiên cứu nản chí. “Nếu bạn bị bế tắc trong một bài toán, một trong những cách giải quyết là tìm cách lôi cuốn Terence Tao,” Fefferman nói. (theo http://vi.wikipedia.org/wiki/Terence_Tao)